Thực đơn
Philippines Nhân khẩuTừ năm 1990 đến năm 2008, dân số Philippines tăng xấp xỉ 28 triệu, tức tăng trưởng 45% trong giai đoạn này.[147] Cuộc điều tra dân số chính thức đầu tiên tại Philippines được tiến hành vào năm 1877 và ghi nhận dân số là 5.567.685.[148] Năm 2013, Philippines trở thành quốc gia đông dân thứ 12 trên thế giới, với dân số trên 99 triệu.[7] Theo ước tính, một nửa cư dân sống trên đảo Luzon. Tỷ lệ tăng trưởng dân số từ năm 1995 đến năm 2000 là 3,21% mỗi năm, song giảm xuống còn xấp xỉ 1,95% mỗi năm trong giai đoạn 2005 đến 2010, song đây vẫn còn là một vấn đề gây tranh luận.[149][150] Tuổi trung bình của cư dân Philippines là 22,7 tuổi với 60,9% có tuổi từ 15 đến 64.[61] Tuổi thọ trung bình là 71,94 tuổi, 75,03 tuổi đối với nữ và 68,99 tuổi đối với nam.[151] Có khoảng 12 triệu người Philippines sống bên ngoài Philippines.[152] Từ khi Hoa Kỳ tự do hóa các đạo luật nhập cư vào năm 1965, số người tại Hoa Kỳ có nguồn gốc Philippines tăng lên đáng kể. Năm 2007, ước tính có 3,1 triệu người Mỹ gốc Philippines.[153][154] Có 12 triệu người Philippines sống tại hải ngoại.[8]
Vùng đô thị Manila đông dân nhất trong số 12 vùng đô thị được xác định tại Philippines và là vùng đô thị đông dân thứ 11 trên thế giới. Theo điều tra dân số năm 2007, vùng đô thị Manila có dân số là 11.553.427, chiếm 13% tổng dân số toàn quốc.[155] Đại đô thị Manila bao gồm cả các tỉnh lân cận (Bulacan, Cavite, Laguna, và Rizal) có dân số khoảng 21 triệu.[155][156]
Tổng sản phẩm khu vực của Vùng đô thị Manila theo ước tính vào tháng 7 năm 2009 là 468,4 tỷ peso (theo giá so sánh 1985) và chiếm 33% GDP của quốc gia.[157] Năm 2011, nó được xếp hạng là quần thể đô thị thịnh vượng thứ 28 trên thế giới và đứng thứ hai tại Đông Nam Á, theo PricewaterhouseCoopers.[158]
Thành phố lớn nhất của Philippines Điều tra của PSA năm 2015 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng | Tên | Vùng | Dân số | Hạng | Tên | Vùng | Dân số | ||
Quezon Manila | 1 | Quezon | Vùng Thủ đô Quốc gia | 2.936.116 | 11 | Parañaque | Vùng Thủ đô Quốc gia | 665.822 | Davao Caloocan |
2 | Manila | Vùng Thủ đô Quốc gia | 1.780.148 | 12 | Dasmariñas | Calabarzon | 659.019 | ||
3 | Davao | Vùng Davao | 1.632.991 | 13 | Valenzuela | Vùng Thủ đô Quốc gia | 620.422 | ||
4 | Caloocan | Vùng Thủ đô Quốc gia | 1.583.978 | 14 | Bacoor | Calabarzon | 600.609 | ||
5 | Cebu | Trung Visayas | 922.611 | 15 | General Santos | Soccsksargen | 594.446 | ||
6 | Zamboanga | Bán đảo Zamboanga | 861.799 | 16 | Las Piñas | Vùng Thủ đô Quốc gia | 588.894 | ||
7 | Taguig | Vùng Thủ đô Quốc gia | 804.915 | 17 | Makati | Vùng Thủ đô Quốc gia | 582.602 | ||
8 | Antipolo | Calabarzon | 776.386 | 18 | San Jose del Monte | Trung Luzon | 574.089 | ||
9 | Pasig | Vùng Thủ đô Quốc gia | 755.300 | 19 | Bacolod | Tây Visayas | 561.875 | ||
10 | Cagayan de Oro | Bắc Mindanao | 675.950 | 20 | Muntinlupa | Vùng Thủ đô Quốc gia | 504.509 |
Sắc tộc tại Philippines (2018) | ||||
---|---|---|---|---|
sắc tộc | tỷ lệ | |||
Vivasays | 33.75% | |||
Tagalog | 28.70% | |||
Ilocos | 11.20% | |||
Bicol | 6.95% | |||
Moro | 5.10% | |||
Kapampangam | 3.20% | |||
Zamboanga | 1.75% | |||
Igoro | 1.70% | |||
Pangasinan | 1.50% | |||
Hoa | 1.35% | |||
Hispanic hay Mestizo | 0.60% | |||
Palawan | 0.45% | |||
Khác | 4.15% |
Theo điều tra dân số năm 2000, 28,1% người Philippines thuộc dân tộc Tagalog, 13,1% thuộc dân tộc Cebuano, 9% thuộc dân tộc Ilocano, 7,6% thuộc dân tộc Bisaya/Binisaya, 7,5% thuộc dân tộc Hiligaynon, 6% thuộc dân tộc Bikol, 3,4% thuộc dân tộc Waray, và 25,3% thuộc các "dân tộc khác",[61][159] vốn có thể chia nhỏ tiếp thành các nhóm phi bộ lạc như Moro, Kapampangan, Pangasinan, Ibanag, và Ivatan.[160] Cũng có một số dân tộc thổ dân như Igorot, Lumad, Mangyan, Bajau, và các bộ lạc tại Palawan.[161] Người Negrito, chẳng hạn như Aeta và Ati, được cho là các cư dân đầu tiên của quần đảo.[162]
Người Philippines nói chung thuộc một số dân tộc châu Á được phân loại theo ngôn ngữ là một phần của nhóm người nói tiếng Nam Đảo hoặc Mã Lai-Đa Đảo.[161] Người ta cho rằng từ hàng nghìn năm trước, thổ dân Đài Loan nói tiếng Nam Đảo đã nhập cư đến Philippines từ Đài Loan, đem theo các kiến thức của họ về nông nghiệp và đi thuyền viễn dương, cuối cùng thay thế các nhóm người Negrito sống tại quần đảo từ trước đó.[163] Hai dân tộc thiểu số phi bản địa quan trọng nhất là người Hoa và người Tây Ban Nha. Người Philippines gốc Hoa hầu hết là hậu duệ của những người nhập cư từ Phúc Kiến sau năm 1898 và có dân số là 2 triệu, song có ước tính cho rằng 18 triệu người Philippines có một phần gốc Hoa.[164]
Năm ngôn ngữ bản địa hàng đầu (Ethnologue, 2013)[165][166] | ||||
---|---|---|---|---|
Ngôn ngữ | Số người nói (triệu) | |||
Tagalog[167] | 22 | |||
Cebuano[168] | 16 | |||
Ilokano | 7 | |||
Hiligaynon | 6 | |||
Bikol | 5 |
Ethnologue liệt kê 175 ngôn ngữ riêng lẻ tại Philippines, 171 trong số đó là ngôn ngữ đang tồn tại và bốn ngôn ngữ còn lại không còn người nào nói. Các ngôn ngữ bản địa thuộc nhóm Borneo–Philippines của ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo- một nhánh của ngữ hệ Nam Đảo.[161] Theo Hiến pháp Philippines 1987, tiếng Filipino và tiếng Anh là những ngôn ngữ chính thức. Tiếng Filipino là phiên bản tiêu chuẩn hóa của tiếng Tagalog. Cả tiếng Filipino và tiếng Anh đều được sử dụng trong chính quyền, giáo dục, xuất bản, truyền thông, và kinh doanh. Hiến pháp yêu cầu rằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ả Rập được xúc tiến trên cơ sở tự nguyện và tùy ý.[169]
Mười chín ngôn ngữ cấp vùng đóng vai trò là những ngôn ngữ chính thức phụ trợ được dùng làm phương tiện giảng dạy: Aklanon, Bikol, Cebuano, Chavacano, Hiligaynon, Ibanag, Ilocano, Ivatan, Kapampangan, Kinaray-a, Maguindanao, Maranao, Pangasinan, Sambal, Surigaonon, Tagalog, Tausug, Waray-Waray, và Yakan.[2] Các ngôn ngữ bản địa khác như Cuyonon, Ifugao, Itbayat, Kalinga, Kamayo, Kankanaey, Masbateño, Romblomanon, và một số ngôn ngữ Visayas là điều phổ biến tại các tỉnh tương ứng. Tiếng Chavacano là một ngôn ngữ bồi bắt nguồn từ tiếng Tây Ban Nha, được nói tại Cavite và Zamboanga.[170] Các ngôn ngữ phi bản địa cũng được giảng dạy trong các trường học được chọn lọc, Quan thoại được dùng trong các trường tiếng Hoa để phục vụ cho cộng đồng người Philippines gốc Hoa. Các trường Hồi giáo tại Mindanao dạy tiếng Ả Rập tiêu chuẩn hiện đại trong chương trình giảng dạy của họ.[171] Tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Tây Ban Nha được giảng dạy với trợ giúp của các tổ chức ngôn ngữ nước ngoài.[172] Bộ Giáo dục bắt đầu cho tiến hành giảng dạy các ngôn ngữ Mã Lai là tiếng Indonesia và tiếng Malaysia vào năm 2013.[173]
Tôn giáo tại Philippines (2018) | ||||
---|---|---|---|---|
tôn giáo | tỷ lệ | |||
Công giáo Roma | 80.08% | |||
Tin lành | 10.06% | |||
Hồi giáo | 5.60% | |||
Bản địa | 1.76% | |||
Phật giáo | 1.25% | |||
Vô thần | 1.00% | |||
Khác | 0.25% |
Philippines là một quốc gia thế tục, hiến pháp tách biệt nhà thờ và nhà nước. Do ảnh hưởng của văn hóa Tây Ban Nha, Philippines là một trong hai quốc gia mà Công giáo Rôma chi phối tại châu Á, quốc gia còn lại là Đông Timor. Trên 90% dân số là tín hữu Ki-tô giáo: khoảng 80% thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và 10% thuộc các giáo phái Tin Lành, như Iglesia ni Cristo, Giáo hội độc lập Philippines, Giáo hội thống nhất Ki-tô Philippines, và Nhân Chứng Giê-hô-va.[174] Philippines là quốc gia có số dân theo đạo Công giáo đứng thứ 3 thế giới (sau Brasil và México) và lớn nhất trên toàn châu Á.
Từ 5% đến 10% dân số Philippines là tín đồ Hồi giáo, hầu hết họ sinh sống tại các khu vực trên đảo Mindanao, Palawan, và quần đảo Sulu – một khu vực được gọi là Bangsamoro hay Moro.[175][176] Một số người Hồi giáo nhập cư đến khác khu vực đô thị và nông thôn tại những phần khác của quốc gia. Hầu hết người Hồi giáo Philippines thực hành Hồi giáo Sunni theo giáo phái Shafi'i.[35] Xấp xỉ 2% dân số Philippines vẫn thực hành các tôn giáo truyền thống,[177][178] họ gồm nhiều nhóm thổ dân và bộ lạc. Các tôn giáo này thường dung hợp với Ki-tô giáo và Hồi giáo. Thuyết vật linh, tôn giáo dân gian, và shaman giáo vẫn hiện diện như những trào lưu ngầm dưới tôn giáo dòng chính. 1% dân số Philippines thực hành Phật giáo,[177][178] và tôn giáo này cùng với Đạo giáo và tôn giáo dân gian Trung Hoa chiếm ưu thế trong các cộng đồng người Hoa.[176] Có một số lượng nhỏ hơn những người theo Ấn Độ giáo, Sikh giáo, Do Thái giáo và Baha'i.[179] 1% dân số Philippines là người không tôn giáo.[177][178]
Thực đơn
Philippines Nhân khẩuLiên quan
Philippines Philípphê Nguyễn Kim Điền Philippe Troussier Philippe Coutinho Philippines kiện Trung Quốc về Tranh chấp chủ quyền Biển Đông Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch, Công tước xứ Edinburgh Philippe III của Pháp Philipp Lahm Philippe II của Pháp Philippe IV của PhápTài liệu tham khảo
WikiPedia: Philippines http://ejournal.anu.edu.au/index.php/bippa/article... http://epress.anu.edu.au/spanish_lake/mobile_devic... http://epress.anu.edu.au/spanish_lake/mobile_devic... http://www.environment.gov.au/soe/2001/publication... http://www.history-centre.gov.bn/sultanbrunei.htm http://news.abs-cbn.com/halalan2016/nation/05/27/1... http://www.abs-cbnnews.com/nation/08/04/10/corrupt... http://www.adherents.com/largecom/com_bahai.html http://www.allnationspublishing.com/articles/6/1/J... //www.amazon.com/dp/B001O7GGNI